Scholar Hub/Chủ đề/#bụp giấm/
Bụp giấm, hay hoa atiso đỏ, thuộc họ Cẩm Quỳ, là cây bụi cao 1.5-2.5 mét, có hoa đỏ tươi. Nguồn gốc từ Tây Phi, bụp giấm được trồng rộng rãi ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Cây được sử dụng trong ẩm thực và y học dân gian, với hoa chế biến thành nước giải khát, trà và các món ăn. Về y học, bụp giấm có khả năng chống oxy hóa, hỗ trợ huyết áp và cải thiện sức khỏe gan. Cây cần đất thoát nước, dinh dưỡng và ánh sáng để phát triển tốt.
Bụp Giấm: Giới Thiệu Chung
Bụp giấm, còn được gọi là hoa atiso đỏ, là một loài cây thuộc họ Cẩm Quỳ (Malvaceae). Loài cây này thường được trồng để tận dụng hoa, lá và hạt cho nhiều mục đích khác nhau. Trong tiếng Anh, bụp giấm có tên khoa học là Hibiscus sabdariffa.
Đặc Điểm Sinh Thái
Bụp giấm là cây bụi hàng năm hoặc nhiều năm, có chiều cao từ 1.5 đến 2.5 mét. Cây có thân thẳng, thường khoe sắc đỏ tía đặc trưng. Lá cây mọc xen kẽ, có phiến lá hình tim hoặc hình trứng, viền lá có khía răng cưa.
Hoa của bụp giấm có màu đỏ tươi, đường kính dao động từ 8 đến 10 cm. Quả của cây có hình dạng, kích thước tương tự quả nang, chứa nhiều hạt nhỏ.
Phân Bố Địa Lý
Bụp giấm có nguồn gốc từ Tây Phi, hiện được trồng phổ biến ở nhiều vùng khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới trên toàn thế giới, đặc biệt là ở khu vực Đông Nam Á, Châu Phi, và một số vị trí tại châu Mỹ.
Công Dụng Và Lợi Ích
Bụp giấm được sử dụng rộng rãi trong ẩm thực và y học dân gian. Hoa atiso đỏ là thành phần chính trong nhiều loại nước giải khát, trà, và các món ăn nhờ vị chua và màu sắc hấp dẫn. Ngoài ra, hoa còn được chế biến thành mứt, thạch, và các sản phẩm bảo quản khác.
Về mặt y học, bụp giấm được biết đến với khả năng chống oxy hóa, hỗ trợ điều trị huyết áp cao, và cải thiện sức khỏe gan. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng chiết xuất từ hoa bụp giấm có thể giúp giảm mức cholesterol và triglyceride.
Cách Trồng Và Chăm Sóc
Bụp giấm thích hợp với khí hậu nhiệt đới, yêu cầu đất trồng thoát nước tốt, giàu dinh dưỡng, và ánh sáng mặt trời đầy đủ. Việc chăm sóc cây đòi hỏi tưới nước đều đặn và kiểm tra sâu bệnh thường xuyên.
Kết Luận
Bụp giấm, với những lợi ích đa dạng từ ẩm thực tới y tế, đang ngày càng được ưa chuộng trên toàn thế giới. Nắm bắt thông tin về cách trồng và tận dụng bụp giấm có thể giúp khai thác tối đa tiềm năng của loài cây độc đáo này.
Tiến Bộ Gần Đây và Quan Điểm Mới Trong Dược Lý Điều Trị Béo Phì Dịch bởi AI FapUNIFESP (SciELO) - Tập 54 Số 6 - Trang 516-529 - 2010
Sự gia tăng về tỷ lệ béo phì trong những thập kỷ gần đây là một vấn đề đáng lo ngại, dẫn đến một số lượng lớn bệnh nhân có nguy cơ mắc các biến chứng chuyển hóa và tim mạch liên quan. Hiệu quả dài hạn tương đối khiêm tốn của thay đổi lối sống đơn thuần đòi hỏi cần những can thiệp mạnh mẽ hơn, có thể thông qua việc sử dụng thuốc hỗ trợ hoặc phương pháp phẫu thuật mạnh mẽ hơn. Dù phẫu thuật giảm cân cho đến nay được coi là phương pháp điều trị hiệu quả nhất cho căn bệnh này, nhưng nó có thể liên quan đến các biến chứng dinh dưỡng và chuyển hóa chưa được làm rõ hoàn toàn. Tương phản với điều này là sự khan hiếm của các chất chống béo phì hiện có trên thị trường, bên cạnh những vấn đề lịch sử liên quan đến việc rút một số loại thuốc trước đây vì lý do an toàn. Bài viết này nhằm mục đích trình bày dữ liệu gần đây từ các nghiên cứu lâm sàng về các loại thuốc mới được đề nghị cho việc điều trị béo phì, với triển vọng nhanh chóng được tung ra thị trường nếu chúng thông qua sự chấp thuận của các cơ quan quản lý. Bài tổng quan này sẽ thảo luận về hiệu quả và độ an toàn của những loại thuốc này, bao gồm lorcaserin (chất chủ vận thụ thể serotonin 5-HT2c chọn lọc), tesofensina (chất ức chế ba tái hấp thu monoamine), liraglutide (chất tương đồng GLP-1) và cetilistate (chất ức chế lipase dạ dày-ruột), cùng các kết hợp bupropion/naltrexone, bupropion/zonisamid, phentermine/topiramate và pramlintide/metreleptin.
#obesidade #farmacoterapia #cirurgia bariátrica #lorcaserina #tesofensina #liraglutide #cetilistate #bupropiona #naltrexona #bupropiona/zonisamida #fentermina/topiramato #pramlintide/metreleptina #dược lý #biến chứng chuyển hóa #giảm cân #nguy cơ tim mạch
Tác dụng giảm đau của paracetamol 1000 mg/ibuprofen 400 mg, paracetamol 1000 mg/codeine 60 mg, paracetamol 1000 mg/ibuprofen 400 mg/codeine 60 mg hoặc giả dược đối với cơn đau cấp tính sau phẫu thuật: một nghiên cứu đơn liều, ngẫu nhiên và mù đôi Dịch bởi AI European Journal of Clinical Pharmacology - Tập 79 Số 8 - Trang 1131-1141 - 2023
Tóm tắt
Mục tiêu
Kết hợp các thuốc giảm đau có cơ chế tác động khác nhau có thể tăng cường hiệu quả giảm đau. Các hồ sơ dược động học đa chiều của ibuprofen 400 mg/paracetamol 1000 mg, ibuprofen 400 mg/paracetamol 1000 mg/codeine 60 mg, và paracetamol 1000 mg/codeine 60 mg cùng với giả dược đã được so sánh.
Phương pháp
Một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, kiểm soát giả dược, nhóm song song, trung tâm đơn, ngoại trú và liều đơn đã được thực hiện với 200 bệnh nhân ở cả hai giới và có nguồn gốc dân tộc đồng nhất sau phẫu thuật răng khôn (tuổi trung bình 24 năm, trong khoảng 19–30 năm). Kết quả chính là tổng cường độ đau trong vòng 6 giờ (SPI). Các kết quả thứ cấp bao gồm thời gian bắt đầu giảm đau, thời gian giảm đau, thời gian sử dụng thuốc cứu trợ, số lượng bệnh nhân dùng thuốc cứu trợ, tổng khác biệt cường độ đau (SPID), khác biệt cường độ đau tối đa, thời gian đến khác biệt cường độ đau tối đa, số bệnh nhân cần điều trị, giá trị ngăn ngừa tái điều trị và tác hại, tác dụng phụ và các chỉ số báo cáo của bệnh nhân (PROM).
Kết quả
Hiệu quả giảm đau khi kết hợp ibuprofen và paracetamol có hay không có codeine là tương đương nhau. Cả hai kết quả đều tốt hơn so với paracetamol kết hợp với codeine. Các biến thứ cấp đã hỗ trợ phát hiện này. Phân tích sau nghiệm SPI và SPID đã phát hiện xu hướng tương tác giới tính/thuốc trong các nhóm có chứa codeine, trong đó nữ giới cảm nhận ít hiệu quả giảm đau hơn. PROM cho thấy một tương tác giới tính/thuốc đáng kể trong nhóm paracetamol và codeine, nhưng không ở các nhóm khác có chứa codeine. Đặc biệt, các nữ giới đã báo cáo các tác dụng phụ đã biết và nhẹ trong các nhóm có chứa codeine.
Kết luận
Codeine thêm vào ibuprofen/paracetamol dường như không làm tăng hiệu quả giảm đau trong một quần thể nghiên cứu có giới tính hỗn hợp. Giới tính có thể là một yếu tố gây nhầm lẫn khi thử nghiệm các thuốc giảm đau opioid yếu như codeine. PROM dường như nhạy hơn so với các chỉ số kết quả truyền thống.
Đăng ký thử nghiệm
ClinicalTrials.gov tháng 6 năm 2009 NCT00921700.
Đánh giá tác dụng trên cuộc chuyển dạ và các tác dụng không mong muốn khác của gây tê cạnh cổ tử cung bằng bupivacain giảm đau trong chuyển dạ đẻMục tiêu: Đánh giá tác dụng trên cuộc chuyển dạ và các tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê cạnh cổ tử cung bằng bupivacain 0,25% giảm đau trong chuyển dạ đẻ. Đối tượng và phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng trên 120 sản phụ chuyển dạ đẻ con so, chia làm hai nhóm bằng nhau: Nhóm nghiên cứu: Các sản phụ được gây tê cạnh cổ tử cung bằng 10ml bupivacain 0,25%; nhóm chứng: Các sản phụ được giảm đau bằng thuốc giảm đau đường toàn thân (dolargan 50mg). Kết quả: Thời gian cổ tử cung từ 4 - 5cm đến khi mở hết là 130,7 ± 43,2 phút ở nhóm gây tê cạnh cổ tử cung thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với 270,6 ± 70,3 phút ở nhóm chứng. Tần số cơn co tử cung và nhịp tim thai không có sự khác biệt so với nhóm chứng. Không có bệnh nhân nào bị ức chế vận động, tỷ lệ nôn, buồn nôn thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng (0% so với 11,67%), tỷ lệ bí tiểu không có sự khác biệt so với nhóm chứng (3,3% so với 6,7%). Kết luận: Gây tê cạnh cổ tử cung giảm đau trong chuyển dạ đẻ bằng bupivacain 0,25% làm cổ tử cung mở nhanh hơn, không ảnh hưởng đến cơn co tử cung và nhịp tim thai. Phương pháp này không gây ức chế vận động, tỷ lệ nôn, buồn nôn giảm so với nhóm chứng, tỷ lệ bí tiểu không khác biệt so với nhóm chứng.
#Gây tê cạnh cổ tử cung #giảm đau trong chuyển dạ đẻ #bupivacain #tác dụng không mong muốn
ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG VÔ CẢM VÀ GIẢM ĐAU SAU MỔ CỦA GÂY TÊ TỦY SỐNG BẰNG BUPIVACAIN KẾT HỢP VỚI CÁC LIỀU MORPHIN KHÁC NHAU TRONG PHẪU THUẬT CHẤN THƯƠNG CHI DƯỚIMục tiêu: So sánh tác dụng vô cảm và giảm đau sau mổ của GTTS bằng 8mg bupivacain 0.5% kết hợp với 100mcg, 200mcg, 300mcg morphin trong phẫu thuật chấn thương chi dưới tại bệnh viện Quân Y 105 từ tháng 11/2018 đến tháng 04/2019. Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng, tiến cứu, có nhóm so sánh. Bệnh nhân được chia vào 03 nhóm ngẫu nhiên: Nhóm I gồm 40 bệnh nhân được GTTS bằng bupivacain liều 8mg kết hợp với morphin 0,10mg. Nhóm II gồm 40 bệnh nhân được GTTS bằng bupivacain liều 8mg kết hợp với morphin 0,20mg. Nhóm III gồm 40 bệnh nhân được GTTS bằng bupivacain liều 8mg kết hợp với morphin 0,3mg. Kết quả nghiên cứu: Thời gian vô cảm của 3 nhóm kéo dài và gần như nhau, với nhóm I, II và III là: ở mức T12 là 140 ¸ 235 phút; ở mức T10 là 90 ¸ 190 phút; ở mức T6 là 65 ¸ 135 phút, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p> 0,05. Nhóm III dùng liều 0,3mg morphin có thời gian giảm đau sau mổ dài nhất là: 29,87 ± 7,00 giờ, tiếp đó nhóm II dùng liều 0,2mg morphin là 22,33 ± 4,44 giờ và thấp nhất là nhóm I dùng liều 0,1mg morphin 18,28 ± 3,86 giờ, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Kết luận: Liều dùng morphin giảm đau: nên dùng liều 0,3mg vì tác dụng thời gian giảm đau kéo dài so với liều 0,2mg hay 0,1mg.
#gây tê tủy sống #bupivacaine #morphin
HIỆU QUẢ GÂY TÊ KHI THÊM DEXAMETHASONE VÀO LEVOBUPIVACAIN TRONG GÂY TÊ ĐÁM RỐI CÁNH TAY ĐƯỜNG TRÊN ĐÒN CHO PHẪU THUẬT CHI TRÊNMục tiêu: So sánh tác dụng ức chế cảm giác, ức chế vận động, hiệu quả vô cảm và giảm đau sau mổ cho phẫu thuật chi trên khi thêm 8mg dexamethasone vào dung dịch levobupvacain 0,5% và adrenalin 5mcg/ml với khi không thêm trong gây tê đám rối thần kinh cánh tay đường trên đòn. Đối tượng và phương pháp: Phương pháp nghiên cứu mô tả, tiến cứu, ngẫu nhiên, có đối chứng trên 60 bệnh nhân được phẫu thuật chi trên theo kế hoạch tại bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên từ tháng 1/ 2022 đến tháng 9/2022. Kết quả: Tỷ lệ chất lượng vô cảm tốt ở nhóm LA và LAD lần lượt là 90% và 93,33%. Không có trường hợp nào chất lượng vô cảm kém. Sự khác biệt giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê. Thời gian tiềm tàng ức chế cảm giác và vận động ở nhóm LAD (lần lượt là: 5,33 ± 1,42 phút và 8,40 ± 2,04 phút) thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm LA (lần lượt là: 7,20 ± 1,56 phút và 10,23 ± 2,23 phút). Thời gian tác dụng ức chế cảm giác, vận động, yêu cầu liều cứu giảm đau đầu tiên ở nhóm LAD (lần lượt là: 1132,20 ± 224,84 phút, 995,37 ± 227,03 phút và 1107,37 ± 219,09 phút) dài hơn có ý nghĩa so với nhóm LA (lần lượt là: 871,50 ± 154,37 phút, 733,93 ± 161,83 phút và 842,37 ± 159,02 phút). Kết luận: Việc thêm dexamethasone vào levobupivacain trong gây tê đám rối thần kinh đường trên đòn đã giúp giảm thời gian tiềm tàng, kéo dài thời gian tác dụng ức chế cảm giác, vận động và giảm đau sau mổ. Đồng thời cũng cho kết quả vô cảm tốt khi phẫu thuật chi trên.
#Gây tê đám rối thần kinh cánh tay #levobupivacain #dexamethasone #giảm đau sau mổ
SO SÁNH TÁC DỤNG GIẢM ĐAU ĐƯỜNG NGOÀI MÀNG CỨNG TRONG CHUYỂN DẠ ĐẺ BẰNG ROPIVACAIN 0,125% - FENTANYL VỚI BUPIVACAIN 0,125% - FENTANYLMục tiêu: So sánh tác dụng giảm đau đường ngoài màng cứng trong chuyển dạ đẻ bằn ropivacain 0,125% - fentany với bupivacain 0,125% - fentanyl. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu can thiệp lâm sàng có so sánh. 60 sản phụ chia thành 2 nhóm được gây tê NMC giảm đau trong chuyển dạ, nhóm R sử dụng ropivacain 0,125% nhóm B sử dụng Bupivacain 0,125%. Cả hai nhóm được đánh giá hiệu quả giảm đau, ảnh hưởng lên khả năng rặn đẻ, thời gian chuyển dạ và tác dụng không mong muốn. Kết quả: Hiệu quả giảm đau trong chuyển dạ của cả hai nhóm đều tốt. Điểm VAS trung bình sau gây tê của cả hai nhóm đều dưới 4 điểm. Thời gian ở giai đoạn 1b của nhóm R 166,8±133, 1 phút dài hơn nhóm B 129,0±95,0 phút. p>0,05. Thời gian giai đoạn 2 của nhóm R là 21,54±16, 1 phút dài hơn so với nhóm B là 19,0 ± 14,4 phút. p>0,05. Nhóm B có 1 sản phụ (chiếm 3,3%) có giảm cảm giác mót rặn. Nhóm R có 100% sản phụ có khả năng rặn đẻ tốt, còn nhóm B có 1 sản phụ khả năng rặn đẻ giảm. Kết luận: Cả hai nhóm đều có hiệu quả giảm đau trong chuyển dạ tốt. thời gian giai đoạn 1b và giai đoạn 2 của nhóm R dài hơn nhóm B. Nhóm R ít gây ảnh hưởng lên cảm giác mót rặn và khả năng rặng đẻ hơn nhóm B.
#Gây tê ngoài màng cứng #ropivacain #giảm đau trong đẻ
So sánh tác dụng giảm đau sau mổ cắt tử cung hoàn toàn đường bụng của gây tê ngoài màng cứng bằng levobupivacain 0,075% với bupivacain 0,075% cùng phối hợp fentanyl và adrenalin Mục tiêu: So sánh hiệu quả giảm đau sau mổ cắt tử cung hoàn toàn đường bụng của gây tê ngoài màng cứng bằng levobupivacain 0,075% so với bupivacain 0,075%, cả hai nhóm đều phối hợp với fentanyl 1mcg/ml và adrenalin 5mcg/ml. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng, 70 bệnh nhân được phẫu thuật cắt tử cung hoàn toàn đường bụng, được giảm đau sau mổ bằng gây tê ngoài màng cứng, chia thành hai nhóm: Nhóm LEVO sử dụng dung dịch levobupivacain 0,075% và nhóm BUPI sử dụng dung dịch bupivacain 0,075%, cả hai nhóm đều phối hợp với fentanyl 1mcg/ml và adrenalin 5mcg/ml (adrenalin 1/200000). Kết quả: Hiệu quả giảm đau sau mổ của nhóm LEVO tương đương với nhóm BUPI (điểm VAS ở trạng thái tĩnh và trạng thái động tương đương nhau ở 24 giờ đầu và 24 giờ tiếp theo, điểm VAS tĩnh luôn < 2 và điểm VAS động luôn < 6 ở tất cả các thời điểm nghiên cứu của cả hai nhóm). Độ hài lòng của bệnh nhân với hiệu quả giảm đau cũng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm nghiên cứu (mức độ hài lòng và rất hài lòng của nhóm LEVO là 82,86% so với 77,14% của nhóm BUPI). Kết luận: Hiệu quả giảm đau sau mổ cắt tử cung hoàn toàn đường bụng của gây tê ngoài màng cứng bằng levobupivacain 0,075% phối hợp fentanyl 1mcg/ml và adrenalin 5mcg/ml tương đương với bupivacain 0,075% phối hợp fentanyl 1mcg/ml và adrenalin 5mcg/ml.
#Gây tê ngoài màng cứng #giảm đau sau mổ cắt tử cung hoàn toàn #levobupivacain #bupivacain
Có thể Dexamethasone Đường Epidural Giảm Tiêu Thụ Fentanyl và Levobupivacaine Điều Khiển Bởi Bệnh Nhân Ở Phụ Nữ Đang Sinh Nở? Một Nghiên Cứu Hai Mù, Ngẫu Nhiên, Đối Chứng Giả Dịch bởi AI The Journal of Obstetrics and Gynecology of India - Tập 69 - Trang 258-265 - 2018
Hiệu quả của một liều dexamethasone đường epidural đơn liều kết hợp với levobupivacaine–fentanyl cho giảm đau trong chuyển dạ chưa được nghiên cứu. Trong thử nghiệm đối chứng mù đôi ngẫu nhiên này, chúng tôi đánh giá tác động của dexamethasone đường epidural trong việc giảm lượng tiêu thụ trung bình theo giờ của hỗn hợp levobupivacaine–fentanyl ở các sản phụ đang chuyển dạ và nghiên cứu tác động của nó đến điểm đau, sự hài lòng của mẹ, kết quả thai kỳ và sơ sinh. Sáu mươi sản phụ trưởng thành ASA I-II có thai đơn và sinh đủ tháng, với cổ tử cung mở ≤ 5 cm đã được phân ngẫu nhiên thành hai nhóm có kích thước tương đương. Chúng tôi thực hiện chèn kim tủy sống–epidural cho tất cả sản phụ. Sau khi đặt ống thông epidural vào khoang epidural, nhóm nhận dexamethasone được dùng 8 mg dexamethasone không chứa chất bảo quản, còn nhóm giả dược nhận 0,9% natri clorua. Tất cả sản phụ nhận được truyền liên tục nền 5 ml levobupivacaine 0,1% với 2 μg/ml fentanyl, kèm theo quyền kiểm soát của bệnh nhân với bolus 5 ml levobupivacaine 0,1% và 2 μg/ml fentanyl (thời gian khóa 15 phút). Thước đo kết quả chính là tổng lượng tiêu thụ levobupivacaine–fentanyl theo giờ. Các thước đo kết quả thứ cấp bao gồm sự hài lòng của mẹ, điểm đau, các thông số huyết động của mẹ, nhịp tim của thai nhi, thời gian giai đoạn hai của chuyển dạ, cách thức sinh, điểm Apgar và các tác dụng phụ. Lượng thuốc tiêu thụ và nhu cầu bolus theo giờ thấp hơn đáng kể ở nhóm dexamethasone so với nhóm giả dược (6.97 ml ± 1.22 so với 8.40 ml ± 2.59 và 0.41 ± 0.26 so với 0.72 ± 0.55, P = 0.008 cho cả hai). Không có sự khác biệt đáng kể trong các thước đo kết quả khác. Dexamethasone đường epidural đã làm giảm đáng kể lượng thuốc tiêu thụ trung bình theo giờ và số bolus ở các sản phụ đang chuyển dạ, do đó cung cấp hiệu ứng tiết kiệm liều thuốc epidural.
#dexamethasone #epidural #levobupivacaine #fentanyl #labor analgesia #randomized controlled trial
Thời gian bắt đầu giảm đau với sodium ibuprofen, ibuprofen acid kết hợp poloxamer và acetaminophen—một nghiên cứu đơn liều, mù đôi, có đối chứng giả dược trên bệnh nhân đau răng sau phẫu thuật Dịch bởi AI European Journal of Clinical Pharmacology - Tập 65 - Trang 343-353 - 2009
Mục tiêu của nghiên cứu là so sánh thời gian bắt đầu tác dụng và hiệu quả của sodium ibuprofen (ibuprofen sodium dihydrate) và ibuprofen acid kết hợp poloxamer (ibuprofen/poloxamer) với acetaminophen và giả dược ở bệnh nhân đau răng sau phẫu thuật. Nghiên cứu mù đôi, ngẫu nhiên, có đối chứng giả dược, so sánh chủ động, tại hai trung tâm nhằm đánh giá hiệu quả giảm đau của sodium ibuprofen (512 mg, tương đương với 400 mg ibuprofen acid), ibuprofen/poloxamer (chứa 400 mg ibuprofen acid và 120 mg poloxamer 407), acetaminophen (1000 mg) và giả dược trên bệnh nhân có mức độ đau từ trung bình đến nặng sau khi nhổ răng khôn (n = 322). Thời gian bắt đầu tác dụng được đánh giá bằng kỹ thuật hai đồng hồ bấm, và mức độ đau và sự giảm đau được đo bằng các thang đo mô tả truyền thống đã được xác thực. Nhiều bệnh nhân đạt được sự giảm đau có thể cảm nhận và giảm đau có ý nghĩa rõ rệt hơn với sodium ibuprofen (96,3%, P < 0,0001) và ibuprofen/poloxamer (90,0%, P = 0,0005) so với acetaminophen (67,5%). Thời gian bắt đầu tác dụng của cả hai dạng ibuprofen tương đương với acetaminophen lên đến 45 phút sau liều; sự phân kỳ rõ rệt về thời gian bắt đầu có lợi cho các dạng ibuprofen xảy ra từ 45 phút trở đi. Giá trị trung bình cho diện tích dưới đường cong sự khác biệt giữa sự giảm đau và cường độ đau (0–6 giờ) lớn hơn đáng kể cho sodium ibuprofen (3,46) và ibuprofen acid (3,49) so với acetaminophen (2,25) (P < 0,001). Các chỉ số giảm đau và cường độ đau khác cũng nghiêng về cả hai dạng ibuprofen so với acetaminophen. Độ phân tâm do đau (sau 6 giờ) lớn hơn đáng kể với các dạng ibuprofen so với acetaminophen (P = 0,008 cho sodium ibuprofen; P = 0,03 cho ibuprofen/poloxamer). Ở những bệnh nhân nhận ibuprofen, cơn đau có sự cản trở ít hơn với các hoạt động hàng ngày (sau 1 và 6 giờ) so với những người nhận acetaminophen (P ≤ 0,015). Cả hai dạng ibuprofen đều có điểm đánh giá toàn cầu trung bình tốt hơn đáng kể so với acetaminophen (P < 0,001). Hồ sơ dung nạp của các dạng ibuprofen tương đương với acetaminophen. So với acetaminophen, sodium ibuprofen liên quan đến hiệu quả giảm đau tốt hơn đáng kể, giảm đau với một tỷ lệ lớn bệnh nhân và sự hài lòng cao hơn của bệnh nhân.
#sodium ibuprofen #ibuprofen acid #ibuprofen/poloxamer #acetaminophen #nghiên cứu giảm đau #bệnh nhân đau răng sau phẫu thuật
So sánh tác dụng ức chế vận động, cảm giác và ảnh hưởng trên tuần hoàn của ropivacain 0,1% và bupivacain 0,1% trong giảm đau ngoài màng cứng sau phẫu thuật khớp háng trên người cao tuổiMục tiêu: So sánh tác dụng ức chế vận động, cảm giác và ảnh hưởng lên tuần hoàn của ropivacain 0,1% với bupivacain 0,1% trong giảm đau ngoài màng cứng do bệnh nhân tự điều khiển sau phẫu thuật khớp háng trên người cao tuổi. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu can thiệp lâm sàng ngẫu nhiên có so sánh. 104 bệnh nhân ≥ 60 tuổi, có chỉ định phẫu thuật thay khớp háng, không có chống chỉ định gây tê ngoài màng cứng. 52 bệnh nhân nhóm R sử dụng ropivacain 0,1% và 52 bệnh nhân nhóm B sử dụng bupivacain 0,1% cả hai nhóm phối hợp fentanyl 1mcg/ml. Kết quả: Cả hai nhóm có hiệu quả giảm đau tốt, điểm VAS khi nghỉ và vận động thấp hơn 4. Mức độ ức chế vận động M2 của nhóm B là 13,5% cao hơn so với nhóm R không có bệnh nhân nào (p<0,05). Sự thay đổi huyết áp trung bình và tần số tim của hai nhóm không có sự khác biệt (p>0,05). Kết luận: Gây tê ngoài màng cứng do bệnh nhân tự điều khiển bằng bupivacain 0,1% và ropivacain 0,1% đều có hiệu quả tốt. Mức ức chế vận động của nhóm bupivacain cao hơn nhóm ropivacain. Nhóm bupivacain 0,1% và nhóm ropivacain 0,1% có mức ảnh hưởng như nhau trên huyết áp trung bình và tần số tim.
#PCEA #bupivacain #ropivacain #phẫu thuật thay khớp háng