Bụp giấm là gì? Các công bố khoa học về Bụp giấm

Bụp giấm, hay hoa atiso đỏ, thuộc họ Cẩm Quỳ, là cây bụi cao 1.5-2.5 mét, có hoa đỏ tươi. Nguồn gốc từ Tây Phi, bụp giấm được trồng rộng rãi ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Cây được sử dụng trong ẩm thực và y học dân gian, với hoa chế biến thành nước giải khát, trà và các món ăn. Về y học, bụp giấm có khả năng chống oxy hóa, hỗ trợ huyết áp và cải thiện sức khỏe gan. Cây cần đất thoát nước, dinh dưỡng và ánh sáng để phát triển tốt.

Bụp Giấm: Giới Thiệu Chung

Bụp giấm, còn được gọi là hoa atiso đỏ, là một loài cây thuộc họ Cẩm Quỳ (Malvaceae). Loài cây này thường được trồng để tận dụng hoa, lá và hạt cho nhiều mục đích khác nhau. Trong tiếng Anh, bụp giấm có tên khoa học là Hibiscus sabdariffa.

Đặc Điểm Sinh Thái

Bụp giấm là cây bụi hàng năm hoặc nhiều năm, có chiều cao từ 1.5 đến 2.5 mét. Cây có thân thẳng, thường khoe sắc đỏ tía đặc trưng. Lá cây mọc xen kẽ, có phiến lá hình tim hoặc hình trứng, viền lá có khía răng cưa.

Hoa của bụp giấm có màu đỏ tươi, đường kính dao động từ 8 đến 10 cm. Quả của cây có hình dạng, kích thước tương tự quả nang, chứa nhiều hạt nhỏ.

Phân Bố Địa Lý

Bụp giấm có nguồn gốc từ Tây Phi, hiện được trồng phổ biến ở nhiều vùng khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới trên toàn thế giới, đặc biệt là ở khu vực Đông Nam Á, Châu Phi, và một số vị trí tại châu Mỹ.

Công Dụng Và Lợi Ích

Bụp giấm được sử dụng rộng rãi trong ẩm thực và y học dân gian. Hoa atiso đỏ là thành phần chính trong nhiều loại nước giải khát, trà, và các món ăn nhờ vị chua và màu sắc hấp dẫn. Ngoài ra, hoa còn được chế biến thành mứt, thạch, và các sản phẩm bảo quản khác.

Về mặt y học, bụp giấm được biết đến với khả năng chống oxy hóa, hỗ trợ điều trị huyết áp cao, và cải thiện sức khỏe gan. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng chiết xuất từ hoa bụp giấm có thể giúp giảm mức cholesterol và triglyceride.

Cách Trồng Và Chăm Sóc

Bụp giấm thích hợp với khí hậu nhiệt đới, yêu cầu đất trồng thoát nước tốt, giàu dinh dưỡng, và ánh sáng mặt trời đầy đủ. Việc chăm sóc cây đòi hỏi tưới nước đều đặn và kiểm tra sâu bệnh thường xuyên.

Kết Luận

Bụp giấm, với những lợi ích đa dạng từ ẩm thực tới y tế, đang ngày càng được ưa chuộng trên toàn thế giới. Nắm bắt thông tin về cách trồng và tận dụng bụp giấm có thể giúp khai thác tối đa tiềm năng của loài cây độc đáo này.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "bụp giấm":

Tiến Bộ Gần Đây và Quan Điểm Mới Trong Dược Lý Điều Trị Béo Phì Dịch bởi AI
FapUNIFESP (SciELO) - Tập 54 Số 6 - Trang 516-529 - 2010

Sự gia tăng về tỷ lệ béo phì trong những thập kỷ gần đây là một vấn đề đáng lo ngại, dẫn đến một số lượng lớn bệnh nhân có nguy cơ mắc các biến chứng chuyển hóa và tim mạch liên quan. Hiệu quả dài hạn tương đối khiêm tốn của thay đổi lối sống đơn thuần đòi hỏi cần những can thiệp mạnh mẽ hơn, có thể thông qua việc sử dụng thuốc hỗ trợ hoặc phương pháp phẫu thuật mạnh mẽ hơn. Dù phẫu thuật giảm cân cho đến nay được coi là phương pháp điều trị hiệu quả nhất cho căn bệnh này, nhưng nó có thể liên quan đến các biến chứng dinh dưỡng và chuyển hóa chưa được làm rõ hoàn toàn. Tương phản với điều này là sự khan hiếm của các chất chống béo phì hiện có trên thị trường, bên cạnh những vấn đề lịch sử liên quan đến việc rút một số loại thuốc trước đây vì lý do an toàn. Bài viết này nhằm mục đích trình bày dữ liệu gần đây từ các nghiên cứu lâm sàng về các loại thuốc mới được đề nghị cho việc điều trị béo phì, với triển vọng nhanh chóng được tung ra thị trường nếu chúng thông qua sự chấp thuận của các cơ quan quản lý. Bài tổng quan này sẽ thảo luận về hiệu quả và độ an toàn của những loại thuốc này, bao gồm lorcaserin (chất chủ vận thụ thể serotonin 5-HT2c chọn lọc), tesofensina (chất ức chế ba tái hấp thu monoamine), liraglutide (chất tương đồng GLP-1) và cetilistate (chất ức chế lipase dạ dày-ruột), cùng các kết hợp bupropion/naltrexone, bupropion/zonisamid, phentermine/topiramate và pramlintide/metreleptin.

#obesidade #farmacoterapia #cirurgia bariátrica #lorcaserina #tesofensina #liraglutide #cetilistate #bupropiona #naltrexona #bupropiona/zonisamida #fentermina/topiramato #pramlintide/metreleptina #dược lý #biến chứng chuyển hóa #giảm cân #nguy cơ tim mạch
SO SÁNH TÁC DỤNG GIẢM ĐAU ĐƯỜNG NGOÀI MÀNG CỨNG TRONG CHUYỂN DẠ ĐẺ BẰNG ROPIVACAIN 0,125% - FENTANYL VỚI BUPIVACAIN 0,125% - FENTANYL
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 523 Số 1 - 2023
Mục tiêu: So sánh tác dụng giảm đau đường ngoài màng cứng trong chuyển dạ đẻ bằn ropivacain 0,125% - fentany với bupivacain 0,125% - fentanyl. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu can thiệp lâm sàng có so sánh. 60 sản phụ chia thành 2 nhóm được gây tê NMC giảm đau trong chuyển dạ, nhóm R sử dụng ropivacain 0,125% nhóm B sử dụng Bupivacain 0,125%. Cả hai nhóm được đánh giá hiệu quả giảm đau, ảnh hưởng lên khả năng rặn đẻ, thời gian chuyển dạ và tác dụng không mong muốn. Kết quả: Hiệu quả giảm đau trong chuyển dạ của cả hai nhóm đều tốt. Điểm VAS trung bình sau gây tê của cả hai nhóm đều dưới 4 điểm. Thời gian ở giai đoạn 1b của nhóm R 166,8±133, 1 phút dài hơn nhóm B 129,0±95,0 phút. p>0,05. Thời gian giai đoạn 2 của nhóm R là 21,54±16, 1 phút dài hơn so với nhóm B là 19,0 ± 14,4 phút. p>0,05. Nhóm B có 1 sản phụ (chiếm 3,3%) có giảm cảm giác mót rặn. Nhóm R có 100% sản phụ có khả năng rặn đẻ tốt, còn nhóm B có 1 sản phụ khả năng rặn đẻ giảm. Kết luận: Cả hai nhóm đều có hiệu quả giảm đau trong chuyển dạ tốt. thời gian giai đoạn 1b và giai đoạn 2 của nhóm R dài hơn nhóm B. Nhóm R ít gây ảnh hưởng lên cảm giác mót rặn và khả năng rặng đẻ hơn nhóm B.
#Gây tê ngoài màng cứng #ropivacain #giảm đau trong đẻ
ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG VÔ CẢM VÀ GIẢM ĐAU SAU MỔ CỦA GÂY TÊ TỦY SỐNG BẰNG BUPIVACAIN KẾT HỢP VỚI CÁC LIỀU MORPHIN KHÁC NHAU TRONG PHẪU THUẬT CHẤN THƯƠNG CHI DƯỚI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 498 Số 2 - 2021
Mục tiêu: So sánh tác dụng vô cảm và giảm đau sau mổ của GTTS bằng 8mg bupivacain 0.5% kết hợp với 100mcg, 200mcg, 300mcg morphin trong phẫu thuật chấn thương chi dưới tại bệnh viện Quân Y 105 từ tháng 11/2018 đến tháng 04/2019. Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng, tiến cứu, có nhóm so sánh. Bệnh nhân được chia vào 03 nhóm ngẫu nhiên: Nhóm I gồm 40 bệnh nhân được GTTS bằng bupivacain liều 8mg kết hợp với morphin 0,10mg. Nhóm II gồm 40 bệnh nhân được GTTS bằng bupivacain liều 8mg kết hợp với morphin 0,20mg. Nhóm III gồm 40 bệnh nhân được GTTS bằng bupivacain liều 8mg kết hợp với morphin 0,3mg. Kết quả nghiên cứu: Thời gian vô cảm của 3 nhóm kéo dài và gần như nhau, với nhóm I, II và III là: ở mức T12 là 140 ¸ 235 phút; ở mức T10 là 90 ¸ 190 phút; ở mức T6 là 65 ¸ 135 phút, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p> 0,05. Nhóm III dùng liều 0,3mg morphin có thời gian giảm đau sau mổ dài nhất là: 29,87 ± 7,00 giờ, tiếp đó nhóm II dùng liều 0,2mg morphin là 22,33 ± 4,44 giờ và thấp nhất là nhóm I dùng liều 0,1mg morphin 18,28 ± 3,86 giờ, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Kết luận: Liều dùng morphin giảm đau: nên dùng liều 0,3mg vì tác dụng thời gian giảm đau kéo dài so với liều 0,2mg hay 0,1mg.
#gây tê tủy sống #bupivacaine #morphin
Đánh giá tác dụng trên cuộc chuyển dạ và các tác dụng không mong muốn khác của gây tê cạnh cổ tử cung bằng bupivacain giảm đau trong chuyển dạ đẻ
Mục tiêu: Đánh giá tác dụng trên cuộc chuyển dạ và các tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê cạnh cổ tử cung bằng bupivacain 0,25% giảm đau trong chuyển dạ đẻ. Đối tượng và phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng trên 120 sản phụ chuyển dạ đẻ con so, chia làm hai nhóm bằng nhau: Nhóm nghiên cứu: Các sản phụ được gây tê cạnh cổ tử cung bằng 10ml bupivacain 0,25%; nhóm chứng: Các sản phụ được giảm đau bằng thuốc giảm đau đường toàn thân (dolargan 50mg). Kết quả: Thời gian cổ tử cung từ 4 - 5cm đến khi mở hết là 130,7 ± 43,2 phút ở nhóm gây tê cạnh cổ tử cung thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với 270,6 ± 70,3 phút ở nhóm chứng. Tần số cơn co tử cung và nhịp tim thai không có sự khác biệt so với nhóm chứng. Không có bệnh nhân nào bị ức chế vận động, tỷ lệ nôn, buồn nôn thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng (0% so với 11,67%), tỷ lệ bí tiểu không có sự khác biệt so với nhóm chứng (3,3% so với 6,7%). Kết luận: Gây tê cạnh cổ tử cung giảm đau trong chuyển dạ đẻ bằng bupivacain 0,25% làm cổ tử cung mở nhanh hơn, không ảnh hưởng đến cơn co tử cung và nhịp tim thai. Phương pháp này không gây ức chế vận động, tỷ lệ nôn, buồn nôn giảm so với nhóm chứng, tỷ lệ bí tiểu không khác biệt so với nhóm chứng.
#Gây tê cạnh cổ tử cung #giảm đau trong chuyển dạ đẻ #bupivacain #tác dụng không mong muốn
HIỆU QUẢ GÂY TÊ KHI THÊM DEXAMETHASONE VÀO LEVOBUPIVACAIN TRONG GÂY TÊ ĐÁM RỐI CÁNH TAY ĐƯỜNG TRÊN ĐÒN CHO PHẪU THUẬT CHI TRÊN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 523 Số 2 - 2023
Mục tiêu: So sánh tác dụng ức chế cảm giác, ức chế vận động, hiệu quả vô cảm và giảm đau sau mổ cho phẫu thuật chi trên khi thêm 8mg dexamethasone vào dung dịch levobupvacain 0,5% và adrenalin 5mcg/ml với khi không thêm trong gây tê đám rối thần kinh cánh tay đường trên đòn. Đối tượng và phương pháp: Phương pháp nghiên cứu mô tả, tiến cứu, ngẫu nhiên, có đối chứng trên 60 bệnh nhân được phẫu thuật chi trên theo kế hoạch tại bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên từ tháng 1/ 2022 đến tháng 9/2022. Kết quả: Tỷ lệ chất lượng vô cảm tốt ở nhóm LA và LAD lần lượt là 90% và 93,33%. Không có trường hợp nào chất lượng vô cảm kém. Sự khác biệt giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê. Thời gian tiềm tàng ức chế cảm giác và vận động ở nhóm LAD (lần lượt là: 5,33 ± 1,42 phút và 8,40 ± 2,04 phút) thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm LA (lần lượt là: 7,20 ± 1,56 phút và 10,23 ± 2,23 phút). Thời gian tác dụng ức chế cảm giác, vận động, yêu cầu liều cứu giảm đau đầu tiên ở nhóm LAD (lần lượt là: 1132,20 ± 224,84 phút, 995,37 ± 227,03 phút và 1107,37 ± 219,09 phút) dài hơn có ý nghĩa so với nhóm LA (lần lượt là: 871,50 ± 154,37 phút, 733,93 ± 161,83 phút và 842,37 ± 159,02 phút). Kết luận: Việc thêm dexamethasone vào levobupivacain trong gây tê đám rối thần kinh đường trên đòn đã giúp giảm thời gian tiềm tàng, kéo dài thời gian tác dụng ức chế cảm giác, vận động và giảm đau sau mổ. Đồng thời cũng cho kết quả vô cảm tốt khi phẫu thuật chi trên.
#Gây tê đám rối thần kinh cánh tay #levobupivacain #dexamethasone #giảm đau sau mổ
Nghiên cứu tác dụng chống Oxy hóa và Độc tính cấp của Bụp giấm (HIBISCUS SABDARIFFA L., MALVACEAE)
Đặt vấn đề: Bụp giấm Hibiscus sabdariffa L. được di thực trồng rộng rãi ở nhiều nơi tại Việt Nam và có nhiều hoạt tính sinh học có giá trị. Nghiên cứu này được tiến hành để đánh giá tác dụng chống oxy hóa và xác định độc tính cấp của dược liệu. Mục tiêu nghiên cứu: Phân tích sơ bộ thành phần hóa thực vật, khảo sát hoạt tính chống oxy hoá in-vitro, định lượng hàm lượng polyphenol toàn phần và xác định độc tính cấp đường uống cao chiết nước của dược liệu Bụp giấm. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Bụp giấm tươi được thu thập tại Long An. Phân tích sơ bộ thành phần hóa thực vật theo phương pháp Ciuley. Khảo sát hoạt tính chống oxy hoá theo thử nghiệm DPPH với chất chuẩn là acid ascorbic. Định lượng hàm lượng polyphenol toàn phần bằng phương pháp Folin – Ciocalteu. Khảo sát độc tính cấp trên chuột nhắt trắng, theo dõi tỷ lệ chuột sống, chết trong 72 giờ. Kết quả: Thành phần hóa học có sự hiện diện của các nhóm hợp chất flavonoid, anthocyanidin, tannin, coumarin, triterpenoid tự do, acid hữu cơ. IC50 của cao nước Bụp giấm là 140,04 μg/mL so với IC50 của acid ascorbic là 1,806 μg/mL. Hàm lượng polyphenol toàn phần trong cao chiết nước tương đương 5,729 ± 0,021 mg pyrogallol/mL. Cao nước Bụp giấm không thể hiện độc tính cấp đường uống trên chuột thử nghiệm với thể tích tối đa 0,2 ml dịch/10 g thể trọng, quy ra liều tối đa là Dmax 8000 mg cao/kg trọng lượng chuột. Kết luận: Cao chiết nước Bụp giấm có thành phần hóa học, thể hiện tác dụng chống oxy hóa, không thể hiện độc tính đường uống trên chuột. Kết quả thu được làm nền tảng cho việc nghiên cứu phát triển thuốc hoặc thực phẩm chức năng hoặc nước giải khát từ đài hoa Bụp giấm có tác dụng phòng và/hoặc chữa bệnh.
#Bụp giấm #Hibiscus sabdariffa L #hóa thực vật #chống oxy hoá #DPPH #polyphenol toàn phần #độc tính cấp
Dipyrone tiêm bắp so với Ibuprofen hoặc Nimesulide đường uống trong giảm sốt ở trẻ em tại cơ sở ngoại trú Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 23 - Trang 519-526 - 2012
Mục tiêu: So sánh hiệu quả và tỷ lệ giảm nhiệt độ của ba loại thuốc hạ sốt ở trẻ em bị sốt. Thiết kế: Nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên, có đối chứng, mô tả và song song. Địa điểm: Khoa cấp cứu nhi tại một bệnh viện đại học có 13.000 lượt khám mỗi năm. Tham gia nghiên cứu: 252 trẻ em khỏe mạnh từ 6 tháng đến 14 tuổi mắc bệnh sốt cấp tính, không đồng bệnh. Can thiệp: Các trẻ em được phân bổ nhận một liều duy nhất ibuprofen 10 mg/kg, nimesulide 2.5 mg/kg đường uống hoặc dipyrone 10 mg/kg tiêm. Các chỉ số và kết quả chính: Nhiệt độ nách được đo vào thời điểm sử dụng thuốc hạ sốt và sau 30, 45, 60 và 120 phút. Cả ba loại thuốc đều hiệu quả trong việc giảm nhiệt độ nách trong thời gian thử nghiệm 2 giờ. Tỷ lệ thay đổi nhiệt độ nách giữa ba loại thuốc khác nhau có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm ibuprofen và dipyrone (p = 0.023). Ngoài ra, nhiệt độ nách của nhóm dipyrone thấp hơn một cách có ý nghĩa so với nhóm ibuprofen (p = 0.036) tại thời điểm 120 phút. Không có sự khác biệt ý nghĩa về hiệu quả hạ sốt giữa nhóm nimesulide và hai nhóm còn lại trong suốt thời gian thử nghiệm. Trong mỗi nhóm, sự khác biệt giữa nhiệt độ ban đầu và nhiệt độ vào cuối thời gian thử nghiệm chỉ có ý nghĩa thống kê (p = 0.036) đối với nhóm dipyrone. Kết luận: Cả ba loại thuốc hạ sốt đều có hiệu quả trong việc giảm nhiệt độ nách ở trẻ em bị sốt. Mặc dù việc sử dụng dipyrone tiêm bắp có vẻ hiệu quả hơn ibuprofen, mối quan hệ này không có ý nghĩa khi so sánh với nimesulide. Thêm vào đó, với các tác dụng phụ đã biết và những vấn đề liên quan đến việc tiêm intramuscular ở trẻ em, việc ưu tiên nimesulide hoặc ibuprofen đường uống so với dipyrone trong bối cảnh khoa cấp cứu có vẻ hợp lý hơn, với điều kiện trẻ chấp nhận điều trị bằng đường uống.
#Dipyrone #Ibuprofen #Nimesulide #Hạ sốt #Trẻ em #Nhi khoa #Nghiên cứu lâm sàng
Bupropion SR so với Methylphenidate so với Placebo trong Rối loạn Tăng động Giảm chú ý ở Người lớn Dịch bởi AI
Annals of Clinical Psychiatry - Tập 13 - Trang 129-134 - 2001
Mặc dù rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) ở người lớn ngày càng được công nhận, nhưng có rất ít thử nghiệm có kiểm soát chứng minh hiệu quả của các phương pháp điều trị bằng thuốc, đặc biệt là với các loại thuốc không kích thích. Một thử nghiệm có kiểm soát cho thấy bupropion SR hiệu quả hơn so với giả dược trong điều trị ADHD ở người lớn. Chúng tôi đã tiến hành một nghiên cứu có kiểm soát để so sánh hiệu quả của bupropion SR và methylphenidate với giả dược ở người lớn mắc ADHD. Một thiết kế ngẫu nhiên, mù đôi, song song đã được sử dụng trong nghiên cứu này. Sau 7 ngày dẫn vào giả dược, 30 đối tượng mắc ADHD (theo DSM-IV) trong độ tuổi 18–60 được phân ngẫu nhiên vào các nhóm sử dụng bupropion, methylphenidate hoặc giả dược trong 7 tuần. Methylphenidate được điều chỉnh liều trong 1 tuần với liều tối đa là 0,9 mg/kg/ngày chia thành 3 liều, trong khi bupropion được điều chỉnh liều trong 2 tuần với liều tối đa là 200 mg vào buổi sáng và 100 mg vào buổi tối. Tỷ lệ phản ứng dựa trên đánh giá cải thiện của ấn tượng toàn cầu lâm sàng ở những bệnh nhân nhận bupropion, methylphenidate và giả dược lần lượt là 64%, 50% và 27%. Sự khác biệt về tỷ lệ phản ứng giữa điều trị tích cực và giả dược không có ý nghĩa thống kê (p = 0.14). Kiểm tra tâm lý thần kinh cho thấy có xu hướng ủng hộ điều trị bằng thuốc trên các biện pháp ghi nhớ ngay tức thì và khả năng lưu loát ngôn ngữ. Trong khi bupropion SR có thể là một lựa chọn lâm sàng khả thi cho người lớn mắc ADHD, cần có thêm nghiên cứu.
#ADHD #bupropion #methylphenidate #người lớn #điều trị bằng thuốc
So sánh tác dụng không mong muốn của gây tê ngoài màng cứng bằng hỗn hợp ropivacain - fentanyl với bupivacain - fentanyl để giảm đau trong chuyển dạ đẻ
Mục tiêu: So sánh ảnh hưởng trên tuần hoàn, hô hấp người mẹ và các tác dụng không mong muốn khác trên mẹ và con của hỗn hợp ropivacain 0,1% + fentanyl 2mcg/ml với bupivacain 0,1% + fentanyl 2mcg/ml khi giảm đau trong chuyển dạ đẻ bằng gây tê ngoài màng cứng. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến hành trên 60 sản phụ con so, chuyển dạ đẻ từ tháng 3/2013 đến tháng 9/2013, tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương, được giảm đau trong đẻ bằng gây tê ngoài màng cứng và được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm bằng nhau: Nhóm RF sử dụng ropivacain 0,1% + fentanyl 2mcg/ml; nhóm BF sử dụng bupivacain 0,1% + fentanyl 2mcg/ml. Dung dịch thuốc tê sẽ được tiêm ngắt quãng từng liều 5 - 7ml, cách nhau 5 phút vào catheter ngoài màng cứng khi khởi tê và khi sản phụ đau trở lại. Kết quả: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về ảnh hưởng trên tuần hoàn, hô hấp của người mẹ giữa hai nhóm nghiên cứu (các chỉ số: Tần số tim, huyết áp động mạch trung bình, tần số thở, bão hòa oxy mao mạch của hai nhóm không có sự khác biệt ở tất cả các thời điểm của cuộc đẻ). Các tác dụng không mong muốn của nhóm ropivacain 0,1% cũng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nhóm bupivacain 0,1% (tỷ lệ đau lưng nơi chọc kim là 4% so với 8,7%; buồn nôn là 8% so với 4,3%; ngứa là 12% so với 8,7%; rét run là 8% so với 13%; ức chế vận động mức Bromage độ I là 8% so với 21,7%). Kết luận: Gây tê ngoài màng cứng để giảm đau trong chuyển dạ đẻ bằng hỗn hợp ropivacain 0,1% + fentanyl 2mcg/ml có tác dụng không mong muốn trên tuần hoàn, hô hấp của người mẹ và các tác dụng không mong muốn khác tương đương với hỗn hợp bupivacain 0,1% + fentanyl 2mcg/ml nhưng ít gây ức chế vận động hơn.
#Giảm đau trong chuyển dạ #tác dụng không mong muốn #ropivacain #bupivacain
Thu nhận dịch chiết giàu anthocyanin từ đài hoa bụp giấm và ứng dụng để tạo màu cho kẹo dẻo
Bài báo nghiên cứu phương pháp thu nhận dịch chiết từ đài hoa bụp giấm mục đích để tạo màu tự nhiên cho kẹo dẻo. Quy trình trích ly bằng nước (có và không có sự hỗ trợ của enzyme Pectinex Ultra SP-L) được khảo sát với các thông số tỷ lệ bụp giấm/nước, pH, nhiệt độ, thời gian, tỷ lệ enzyme. Dịch chiết thu được dùng để tạo màu cho kẹo dẻo. Tỷ lệ phối trộn dịch chiết vào kẹo được khảo sát và đánh giá cảm quan chất lượng của sản phẩm. Kết quả đạt được đối với phương pháp trích ly bằng enzyme Pectinex Ultra SP-L với hàm lượng 0,18% v/w, tỷ lệ bụp giấm: nước là 1:30 (w/w), pH 3,4 trong 75 phút ở 54oC. Khi phối trộn theo tỷ lệ dịch chiết: đường là 30/45 ml/g để tạo màu cho kẹo thì sản phẩm cho màu sắc đạt mức yêu thích khá tốt.Từ khóa: cây bụp giấm, đài hoa bụp giấm, enzyme Pectinex Ultra SP-L, kẹo dẻo, anthocyanin.
#cây bụp giấm #đài hoa bụp giấm #enzyme Pectinex Ultra SP-L #kẹo dẻo #anthocyanin
Tổng số: 23   
  • 1
  • 2
  • 3